I.
Mục
tiêu:
-
Hiểu
được
bản
chất
của
phương
pháp
dạy
học
tích
cực.
-Nắm
được
vai
trò
và
nội
dung
cơ
bản
của
một
số
phương
pháp
dạy
học
tích
cực.
-
Thực
hiện
được
phương
pháp
dạy
học
tích
cực
trong
một
số
bài
giảng.
-
Khẳng
định
sự
cần
thiết
và
có
ý
thức
tự
giác,
sáng
tạo
áp
dụng
PPDH
tích
cực.
II.
Nội
dung:
1.
Phương
pháp
dạy
học
tích
cực
là
gì?
a.
Định
hướng
đổi
mới
phương
pháp
dạy
học:
Định
hướng
đổi
mới
phương
pháp
dạy
và
học
đã
được
xác
định
trong
Nghị
quyết
Trung
ương
4
khóa
VII
(1
-
1993),
Nghị
quyết
Trung
ương
2
khóa
VIII
(12
-
1996),
được
thể
chế
hóa
trong
Luật
Giáo
dục
(12
-
1998),
được
cụ
thể
hóa
trong
các
chỉ
thị
của
Bộ
Giáo
dục
và
Đào
tạo,
đặc
biệt
là
chỉ
thị
số
15
(4
-
1999).
Luật
Giáo
dục,
điều
24.2,
đã
ghi:
"Phương
pháp giáo
dục
phổ
thông
phải
phát
huy
tính
tích
cực,
tự
giác,
chủ
động,
sáng
tạo
của
học
sinh;
phù
hợp
với
đặc
điểm
của
từng
lớp
học,
môn
học;
bồi
dưỡng
phương
pháp
tự
học,
rèn
luyện
kĩ
năng
vận
dụng
kiến
thức
vào
thực
tiễn;
tác
động
đến
tình
cảm,
đem
lại
niềm
vui,
hứng
thú
học
tập
cho
học
sinh".
Có
thể
nói
cốt
lõi
của
đổi
mới
dạy
và
học
là
hướng
tới
hoạt
động
học
tập
chủ
động,
chống
lại
thói
quen
học
tập
thụ
động.
b.
Thế
nào
là
tính
tích
cực
học
tập?
Tính
tích
cực
(TTC)
là
một
phẩm
chất
vốn
có
của
con
người,
bởi
vì
để
tồn
tại
và
phát
triển
con
người
luôn
phải
chủ
động,
tích
cực
cải
biến
môi
trường
tự
nhiên,
cải
tạo
xã
hội.
Vì
vậy,
hình
thành
và
phát
triển
TTC
xã
hội
là
một
trong
những
nhiệm
vụ
chủ
yếu
của
giáo
dục.
Tính
tích
cực
học
tập
-
về
thực
chất
là
TTC
nhận
thức,
đặc
trưng
ở
khát
vọng
hiểu
biết,
cố
gắng
trí
lực
và
có
nghị
lực
cao
trong
qúa
trình
chiếm
lĩnh
tri
thức.
TTC
nhận
thức
trong
hoạt
động
học
tập
liên
quan
trước
hết
với động
cơ học
tập.
Động
cơ
đúng
tạo
ra hứng
thú. Hứng
thú
là
tiền
đề
của tự
giác. Hứng
thú
và
tự
giác
là
hai
yếu
tố
tạo
nên
tính
tích
cực.
Tính
tích
cực
sản
sinh
nếp
tư
duy
độc
lập.
Suy
nghĩ
độc
lập
là
mầm
mống
của
sáng
tạo.
Ngược
lại,
phong
cách
học
tập
tích
cực
độc
lập
sáng
tạo
sẽ
phát
triển
tự
giác,
hứng
thú,
bồi
dưỡng
động
cơ
học
tập.
TTC
học
tập
biểu
hiện
ở
những
dấu
hiệu
như:
hăng
hái
trả
lời
các
câu
hỏi
của
giáo
viên,
bổ
sung
các
câu
trả
lời
của
bạn,
thích
phát
biểu
ý
kiến
của
mình
trước
vấn
đề
nêu
ra;
hay
nêu
thắc
mắc,
đòi
hỏi
giải
thích
cặn
kẽ
những
vấn
đề
chưa
đủ
rõ;
chủ
động
vận
dụng
kiến
thức,
kĩ
năng
đã
học
để
nhận
thức
vấn
đề
mới;
tập
trung
chú
ý
vào
vấn
đề
đang
học;
kiên
trì
hoàn
thành
các
bài
tập,
không
nản
trước
những
tình
huống
khó
khăn…
TTC
học
tập
thể
hiện
qua
các
cấp
độ
từ
thấp
lên
cao
như:
-
Bắt
chước:
gắng
sức
làm
theo
mẫu
hành
động
của
thầy,
của
bạn…
-
Tìm
tòi:
độc
lập
giải
quyết
vấn
đề
nêu
ra,
tìm
kiếm
cách
giải
quyết
khác
nhau
về
một
số
vấn
đề…
-
Sáng
tạo:
tìm
ra
cách
giải
quyết
mới,
độc
đáo,
hữu
hiệu.
c.
Phương
pháp
dạy
học
tích
cực:
Phương
pháp
dạy
học
tích
cực
(PPDH
tích
cực)
là
một
thuật
ngữ
rút
gọn,
được
dùng
ở
nhiều
nước
để
chỉ
những
phương
pháp
giáo
dục,
dạy
học
theo
hướng
phát
huy
tính
tích
cực,
chủ
động,
sáng
tạo
của
người
học.
"Tích
cực"
trong
PPDH
-
tích
cực
được
dùng
với
nghĩa
là hoạt
động,
chủ
động, trái
nghĩa
với
không
hoạt
động,
thụ
động
chứ
không
dùng
theo
nghĩa
trái
với
tiêu
cực.
PPDH
tích
cực
hướng
tới
việc
hoạt
động
hóa,
tích
cực
hóa
hoạt
động
nhận
thức
của
người
học,
nghĩa
là
tập
trung
vào
phát
huy
tính
tích
cực
của
người
học
chứ
không
phải
là
tập
trung
vào
phát
huy
tính
tích
cực
của
người
dạy,
tuy
nhiên
để
dạy
học
theo
phương
pháp
tích
cực
thì
giáo
viên
phải
nỗ
lực
nhiều
so
với
dạy
theo
phương
pháp
thụ
động.
Muốn
đổi
mới
cách
học
phải
đổi
mới
cách
dạy.
Cách
dạy
chỉ
đạo
cách
học,
nhưng
ngược
lại
thói
quen
học
tập
của
trò
cũng
ảnh
hưởng
tới
cách
dạy
của
thầy.
Chẳng
hạn,
có
trường
hợp
học
sinh
đòi
hỏi
cách
dạy
tích
cực
hoạt
động
nhưng
giáo
viên
chưa
đáp
ứng
được,
hoặc
có
trường
hợp
giáo
viên
hăng
hái
áp
dụng
PPDH
tích
cực
nhưng
không
thành
công
vì
học
sinh
chưa
thích
ứng,
vẫn
quen
với
lối
học
tập
thụ
động.
Vì
vậy,
giáo
viên
phải
kiên
trì
dùng
cách
dạy
hoạt
động
để
dần
dần
xây
dựng
cho
học
sinh
phương
pháp
học
tập
chủ
động
một
cách
vừa
sức,
từ
thấp
lên
cao.
Trong
đổi
mới
phương
pháp
dạy
học
phải
có
sự
hợp
tác
cả
của
thầy
và
trò,
sự
phối
hợp
nhịp
nhàng
hoạt
động
dạy
với
hoạt
động
học
thì
mới
thành
công.
Như
vậy,
việc
dùng
thuật
ngữ
"Dạy
và
học
tích
cực"
để
phân
biệt
với
"Dạy
và
học
thụ
động".
d.
Mối
quan
hệ
giữa
dạy
và
học,
tích
cực
với
dạy
học
lấy
học
sinh
làm
trung
tâm.
Từ
thập
kỉ
cuối
cùng
của
thế
kỷ
XX,
các
tài
liệu
giáo
dục
ở
nước
ngoài
và
trong
nước,
một
số
văn
bản
của
Bộ
Giáo
dục
và
Đào
tạo
thường
nói
tới
việc
cần
thiết
phải
chuyển
dạy
học
lấy
giáo
viên
làm
trung
tâm
sang
dạy
học
lấy
học
sinh
làm
trung
tâm.
Dạy
học
lấy
học
sinh
làm
trung
tâm
còn
có
một
số
thuật
ngữ
tương
đương
như:
dạy
học
tập
trung
vào
người
học,
dạy
học
căn
cứ
vào
người
học,
dạy
học
hướng
vào
người
học…
Các
thuật
ngữ
này
có
chung
một
nội
hàm
là
nhấn
mạnh
hoạt
động
học
và
vai
trò
của
học
sinh
trong
qúa
trình
dạy
học,
khác
với
cách
tiếp
cận
truyền
thống
lâu
nay
là
nhấn
mạnh
hoạt
động
dạy
và
vai
trò
của
giáo
viên.
Lịch
sử
phát
triển
giáo
dục
cho
thấy,
trong
nhà
trường
một
thầy
dạy
cho
một
lớp
đông
học
trò,
cùng
lứa
tuổi
và
trình
độ
tương
đối
đồng
đều
thì
giáo
viên
khó
có
điều
kiện
chăm
lo
cho
từng
học
sinh
nên
đã
hình
thành
kiểu
dạy
"thông
báo
-
đồng
loạt".
Giáo
viên
quan
tâm
trước
hết
đến
việc
hoàn
thành
trách
nhiệm
của
mình
là
truyền
đạt
cho
hết
nội
dung
quy
định
trong
chương
trình
và
sách
giáo
khoa,
cố
gắng
làm
cho
mọi
học
sinh
hiểu
và
nhớ
những
điều
giáo
viên
giảng.
Cách
dạy
này
đẻ
ra
cách
học
tập
thụ
động,
thiên
về
ghi
nhớ,
ít
chịu
suy
nghĩ,
cho
nên
đã
hạn
chế
chất
lượng,
hiệu
quả
dạy
và
học,
không
đáp
ứng
yêu
cầu
phát
triển
năng
động
của
xã
hội
hiện
đại.
Để
khắc
phục
tình
trạng
này,
các
nhà
sư
phạm
kêu
gọi
phải
phát
huy
tính
tích
cực
chủ
động
của
học
sinh,
thực
hiện
"dạy
học
phân
hóa"
* quan
tâm
đến
nhu
cầu,
khả
năng
của
mỗi
cá
nhân
học
sinh
trong
tập
thể
lớp.
Phương
pháp
dạy
học
tích
cực,
dạy
học
lấy
học
sinh
làm
trung
tâm
ra
đời
từ
bối
cảnh
đó.
Trên
thực
tế,
trong
qúa
trình
dạy
học
người
học
vừa
là
đối
tượng
của
hoạt
động
dạy,
lại
vừa
là
chủ
thể
của
hoạt
động
học.
Thông
qua
hoạt
động
học,
dưới
sự
chỉ
đạo
của
thầy,
người
học
phải
tích
cực
chủ
động
cải
biến
chính
mình
về
kiến
thức,
kĩ
năng,
thái
độ,
hoàn
thiện
nhân
cách,
không
ai
làm
thay
cho
mình
được.
Vì
vậy,
nếu
người
học
không
tự
giác
chủ
động,
không
chịu
học,
không
có
phương
pháp
học
tốt
thì
hiệu
quả
của
việc
dạy
sẽ
rất
hạn
chế.
Như
vậy,
khi
đã
coi
trọng
vị
trí
hoạt
động
và
vai
trò
của
người
học
thì
đương
nhiên
phải
phát
huy
tính
tích
cực
chủ
động
của
người
học.
Tuy
nhiên, dạy
học
lấy
học
sinh
làm
trung
tâm
không
phải
là
một
phương
pháp
dạy
học
cụ
thể.
Đó
là
một
tư
tưởng,
quan
điểm
giáo
dục,
một
cách
tiếp
cận
quá
trình
dạy
học
chi
phối
tất
cả
qúa
trình
dạy
học
về
mục
tiêu,
nội
dung,
phương
pháp,
phương
tiện,
tổ
chức,
đánh
giá…
chứ
không
phải
chỉ
liên
quan
đến
phương
pháp
dạy
và
học.
2.
Đặc
trưng
của
các
phương
pháp
dạy
học
tích
cực.
a.
Dạy
và
học
không
qua
tổ
chức
các
hoạt
động
học
tập
của
học
sinh.
Trong
phương
pháp
dạy
học
tích
cực,
người
học
-
đối
tượng
của
hoạt
động
"dạy",
đồng
thời
là
chủ
thể
của
hoạt
động
"học"
-
được
cuốn
hút
vào
các
hoạt
động
học
tập
do
giáo
viên
tổ
chức
và
chỉ
đạo,
thông
qua
đó
tự
lực
khám
phá
những
điều
mình
chưa
rõ
chứ
không
phải
thụ
động
tiếp
thu
những
tri
thức
đã
được
giáo
viên
sắp
đặt.
Được
đặt
vào
những
tình
huống
của
đời
sống
thực
tế,
người
học
trực
tiếp
quan
sát,
thảo
luận,
làm
thí
nghiệm,
giải
quyết
vấn
đề
đặt
ra
theo
cách
suy
nghĩ
của
mình,
từ
đó
nắm
được
kiến
thức
kĩ
năng
mới,
vừa
nắm
được
phương
pháp
"làm
ra"
kiến
thức,
kĩ
năng
đó,
không
rập
theo
những
khuôn
mâu
sẵn
có,
được
bộc
lộ
và
phát
huy
tiềm
năng
sáng
tạo.
Dạy
theo
cách
này
thì
giáo
viên
không
chỉ
giản
đơn
truyền
đạt
tri
thức
mà
còn
hướng
dẫn
hành
động.
Chương
trình
dạy
học
phải
giúp
cho
từng
học
sinh
biết
hành
động
và
tích
cực
tham
gia
các
chương
trình
hành
động
của
cộng
đồng.
b.
Dạy
và
học
chú
trọng
rèn
luyện
phương
pháp
tự
học.
Phương
pháp
tích
cực
xem
việc
rèn
luyện
phương
pháp
học
tập
cho
học
sinh
không
chỉ
là
một
biện
pháp
nâng
cao
hiệu
quả
dạy
học
mà
còn
là
một
mục
tiêu
dạy
học.
Trong
xã
hội
hiện
đại
đang
biến
đổi
nhanh
-
với
sự
bùng
nổ
thông
tin,
khoa
học,
kĩ
thuật,
công
nghệ
phát
triển
như
vũ
bão
-
thì
không
thể
nhồi
nhét
vào
đầu
óc
học
sinh
khối
lượng
kiến
thức
ngày
càng
nhiều.
Phải
quan
tâm
dạy
cho
học
sinh
phương
pháp
học
ngay
từ
bậc
Tiểu
học
và
càng
lên
bậc
học
cao
hơn
càng
phải
được
chú
trọng.
Trong
các
phương
pháp
học
thì
cốt
lõi
là
phương
pháp
tự
học.
Nếu
rèn
luyện
cho
người
học
có
được phương
pháp,
kĩ
năng,
thói
quen,
ý
chí
tự
học thì
sẽ
tạo
cho
họ
lòng
ham
học,
khơi
dậy
nội
lực
vốn
có
trong
mỗi
con
người,
kết
quả
học
tập
sẽ
được
nhân
lên
gấp
bội.
Vì
vậy,
ngày
nay
người
ta
nhấn
mạnh
mặt
hoạt
động
học
trong
qúa
trình
dạy
học,
nỗ
lực
tạo
ra
sự
chuyển
biến từ
học
tập
thụ
động
sang
tự
học
chủ
động,
đặt
vấn
đề
phát
triển
tự
học
ngay
trong
trường
phổ
thông,
không
chỉ
tự
học
ở
nhà
sau
bài
lên
lớp
mà
tự
học
cả
trong
tiết
học
có
sự
hướng
dẫn
của
giáo
viên.
c.
Tăng
cường
học
tập
cá
thể,
phối
hợp
với
học
tập
hợp
tác.
Trong
một
lớp
học
mà
trình
độ
kiến
thức,
tư
duy
của
học
sinh
không
thể
đồng
đều
tuyệt
đối
thì
khi
áp
dụng
phương
pháp
tích
cực
buộc
phải
chấp
nhận
sự
phân
hóa
về
cường
độ,
tiến
độ
hoàn
thành
nhiệm
vụ
học
tập,
nhất
là
khi
bài
học
được
thiết
kế
thành
một
chuỗi
công
tác
độc
lập.
áp
dụng
phương
pháp
tích
cực
ở
trình
độ
càng
cao
thì
sự
phân
hóa
này
càng
lớn.
Việc
sử
dụng
các
phương
tiện
công
nghệ
thông
tin
trong
nhà
trường
sẽ
đáp
ứng
yêu
cầu
cá
thể
hóa
hoạt
động
học
tập
theo
nhu
cầu
và
khả
năng
của
mỗi
học
sinh.
Tuy
nhiên,
trong
học
tập,
không
phải
mọi
tri
thức,
kĩ
năng,
thái
độ
đều
được
hình
thành
bằng
những
hoạt
động
độc
lập
cá
nhân.
Lớp
học
là
môi
trường
giao
tiếp
thầy
-
trò,
trò
-
trò,
tạo
nên
mối
quan
hệ
hợp
tác
giữa
các
cá
nhân
trên
con
đường
chiếm
lĩnh
nội
dung
học
tập.
Thông
qua
thảo
luận,
tranh
luận
trong
tập
thể,
ý
kiến
mỗi
cá
nhân
được
bộc
lộ,
khẳng
định
hay
bác
bỏ,
qua
đó
người
học
nâng
mình
lên
một
trình
độ
mới.
Bài
học
vận
dụng
được
vốn
hiểu
biết
và
kinh
nghiệm
sống
của
người
thầy
giáo.
Trong
nhà
trường,
phương
pháp
học
tập
hợp
tác
được
tổ
chức
ở
cấp
nhóm,
tổ,
lớp
hoặc
trường.
Được
sử
dụng
phổ
biến
trong
dạy
học
là
hoạt
động
hợp
tác
trong
nhóm
nhỏ
4
đến
6
người.
Học
tập
hợp
tác
làm
tăng
hiệu
quả
học
tập,
nhất
là
lúc
phải
giải
quyết
những
vấn
đề
gay
cấn,
lúc
xuát
hiện
thực
sự
nhu
cầu
phối
hợp
giữa
các
cá
nhân
để
hoàn
thành
nhiệm
vụ
chung.
Trong
hoạt
động
theo
nhóm
nhỏ
sẽ
không
thể
có
hiện
tượng
ỷ
lại;
tính
cách
năng
lực
của
mỗi
thành
viên
được
bộc
lộ,
uốn
nắn,
phát
triển
tình
bạn,
ý
thức
tổ
chức,
tinh
thần
tương
trợ.
Mô
hình
hợp
tác
trong
xã
hội
đưa
vào
đời
sống
học
đường
sẽ
làm
cho
các
thành
viên
quen
dần
với
sự
phân
công
hợp
tác
trong
lao
động
xã
hội.
Trong
nền
kinh
tế
thị
trường
đã
xuất
hiện
nhu
cầu
hợp
tác
xuyên
quốc
gia,
liên
quốc
gia;
năng
lực
hợp
tác
phải
trở
thành
một
mục
tiêu
giáo
dục
mà
nhà
trường
phải
chuẩn
bị
cho
học
sinh.
d.
Kết
hợp
đánh
giá
của
thầy
với
tự
đánh
giá
của
trò.
Trong
dạy
học,
việc
đánh
giá
học
sinh
không
chỉ
nhằm
mục
đích
nhận
định
thực
trạng
và
điều
chỉnh
hoạt
động
học
của
trò
mà
còn
đồng
thời
tạo
điều
kiện
nhận
định
thực
trạng
và
điều
chỉnh
hoạt
động
dạy
của
thầy.
Trước
đây
giáo
viên
giữ
độc
quyền
đánh
giá
học
sinh.
Trong
phương
pháp
tích
cực,
giáo
viên
phải
hướng
dẫn
học
sinh
phát
triển
kĩ
năng
tự
đánh
giá
để
tự
điều
chỉnh
cách
học.
Liên
quan
với
điều
này,
giáo
viên
cần
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
để
học
sinh
được
tham
gia
đánh
giá
lẫn
nhau.
Tự
đánh
giá
đúng
và
điều
chỉnh
hoạt
động
kịp
thời
là
năng
lực
rất
cần
cho
sự
thành
đạt
trong
cuộc
sống
mà
nhà
trường
phải
trang
bị
cho
học
sinh.
Theo
hướng
phát
triển
các
phương
pháp
tích
cực
để
đào
tạo
những
con
người
năng
động,
sớm
thích
nghi
với
đời
sống
xã
hội,
thì
việc
kiểm
tra,
đánh
giá
không
thể
dừng
lại
ở
yêu
cầu
tái
hiện
các
kiến
thức,
lặp
lại
các
kĩ
năng
đã
học
mà
phải
khuyến
khích
trí
thông
minh,
óc
sáng
tạo
trong
việc
giải
quyết
những
tình
huống
thực
tế.
Với
sự
trợ
giúp
của
các
thiết
bị
kĩ
thuật,
kiểm
tra
đánh
giá
sẽ
không
còn
là
một
công
việc
nặng
nhọc
đối
với
giáo
viên,
mà
lại
cho
nhiều
thông
tin
kịp
thời
hơn
để
linh
hoạt
điều
chỉnh
hoạt
động
dạy,
chỉ
đạo
hoạt
động
học.
Từ
dạy
và
học
thụ
động
sang
dạy
và
học
tích
cực,
giáo
viên
không
còn
đóng
vai
trò
đơn
thuần
là
người
truyền
đạt
kiến
thức,
giáo
viên
trở
thành
người thiết
kế,
tổ
chức,
hướng
dẫn các
hoạt
động
độc
lập
hoặc
theo
nhóm
nhỏ
để
học
sinh
tự
lực
chiếm
lĩnh
nội
dung
học
tập,
chủ
động
đạt
các
mục
tiêu
kiến
thức,
kĩ
năng,
thái
độ
theo
yêu
cầu
của
chương
trình.
Trên
lớp,
học
sinh
hoạt
động
là
chính,
giáo
viên
có
vẻ
nhàn
nhã
hơn
nhưng
trước
đó,
khi
soạn
giáo
án,
giáo
viên
đã
phải
đầu
tư
công
sức,
thời
gian
rất
nhiều
so
với
kiểu
dạy
và
học
thụ
động
mới
có
thể
thực
hiện
bài
lên
lớp
với
vai
trò
là
người gợi
mở,
xúc
tác,
động
viên,
cố
vấn,
trọng
tài trong
các
hoạt
động
tìm
tòi
hào
hứng,
tranh
luận
sôi
nổi
của
học
sinh.
Giáo
viên
phải
có
trình
độ
chuyên
môn
sâu
rộng,
có
trình
độ
sư
phạm
lành
nghề
mới
có
thể
tổ
chức,
hướng
dẫn
các
hoạt
động
của
học
sinh
mà
nhiều
khi
diễn
biến
ngoài
tầm
dự
kiến
của
giáo
viên.
Có
thể
so
sánh
đặc
trưng
của
dạy
học
cổ
truyền
và
dạy
học
mới
như
sau:
|
Dạy
học
cổ
truyền |
Các
mô
hình
dạy
học
mới |
Quan
niệm |
Học
là
qúa
trình tiếp
thu và lĩnh
hội,
qua
đó
hình
thành
kiến
thức,
kĩ
năng,
tư
tưởng,
tình
cảm. |
Học
là
qúa
trình kiến
tạo; học
sinh tìm
tòi,
khám
phá,
phát
hiện, luyện
tập,
khai
thác
và
xử
lý
thông
tin,… tự
hình
thành
hiểu
biết,
năng
lực
và
phẩm
chất. |
Bản
chất |
Truyền
thụ tri
thức,
truyền
thụ
và
chứng
minh
chân
lí
của giáo
viên. |
Tổ
chức hoạt
động
nhận
thức
cho học
sinh.
Dạy
học
sinh
cách
tìm
ra
chân
lí. |
Mục
tiêu |
Chú
trọng cung
cấp tri
thức,
kĩ
năng,
kĩ
xảo.
Học
để
đối
phó
với thi
cử.
Sau
khi
thi
xong
những
điều
đã
học
thường
bị
bỏ
quên
hoặc
ít
dùng
đến. |
Chú
trọng
hình
thành các
năng
lực (sáng
tạo,
hợp
tác,…)
dạy phương
pháp và kĩ
thuật lao
động
khoa
học,
dạy cách
học. Học
để đáp
ứng
những
yêu
cầu
của
cuộc
sống hiện
tại
và
tương
lai.
Những
điều
đã
học
cần
thiết,
bổ
ích
cho
bản
thân
học
sinh
và
cho
sự
phát
triển
xã
hội. |
Nội
dung |
Từ
sách
giáo
khoa
+
giáo
viên |
Từ
nhiều
nguồn
khác
nhau:
SGK,
GV,
các
tài
liệu
khoa
học
phù
hợp,
thí
nghiệm,
bảng
tàng,
thực
tế…:
gắn
với:
-
Vốn
hiểu
biết,
kinh
nghiệm
và
nhu
cầu
của
HS.
-
Tình
huống
thực
tế,
bối
cảnh
và
môi
trường
địa
phương.
-
Những
vấn
đề
học
sinh
quan
tâm. |
Phương
pháp |
Các
phương
pháp diễn
giảng,
truyền
thụ
kiến
thức
một
chiều |
Các
phương
pháp tìm
tòi,
điều
tra,
giải
quyết
vấn
đề;
dạy
học tương
tác. |
Hình
thức
tổ
chức |
Cố
định: Giới
hạn
trong
4
bức
tường
của
lớp
học,
giáo
viên
đối
diện
với
cả
lớp. |
Cơ
động,
linh
hoạt:
Học
ở
lớp,
ở
phòng
thí
nghiệm,
ở
hiện
trường,
trong
thực
tế…,
học
cá
nhân,
học
đôi
bạn,
học
theo
cả
nhóm,
cả
lớp
đối
diện
với
giáo
viên. |
3.
Một
số
phương
pháp
dạy
học
tích
cực
cần
phát
triển
ở
trường
Trung
học
phổ
thông
a.
Phương
pháp
vấn
đáp
Vấn
đáp (
đàm
thoại
)
là
phương
pháp
trong
đó
giáo
viên
đặt
ra
câu
hỏi
để
học
sinh
trả
lời,
hoặc
học
sinh
có
thể
tranh
luận
với
nhau
và
với
cả
giáo
viên;
qua
đó
học
sinh
lĩnh
hội
được
nội
dung
bài
học.
Căn
cứ
vào
tính
chất
hoạt
động
nhận
thức,
người
ta
phân
biệt
các
loại
phương
pháp
vấn
đáp:
-
Vấn
đáp
tái
hiện:
giáo
viên
đặt
câu
hỏi
chỉ
yêu
cầu
học
sinh
nhớ
lại
kiến
thức
đã
biết
và
trả
lời
dựa
vào
trí
nhớ,
không
cần
suy
luận.
Vấn
đáp
tái
hiện
không
được
xem
là
phương
pháp
có
giá
trị
sư
phạm.
Đó
là
biện
pháp
được
dùng
khi
cần
đặt
mối
liên
hệ
giữa
các
kiến
thức
vừa
mới
học.
-
Vấn
đáp
giải
thích
–
minh
hoạ
:
Nhằm
mục
đích
làm
sáng
tỏ
một
đề
tài
nào
đó,
giáo
viên
lần
lượt
nêu
ra
những
câu
hỏi
kèm
theo
những
ví
dụ
minh
hoạ
để
học
sinh
dễ
hiểu,
dễ
nhớ.
Phương
pháp
này
đặc
biệt
có
hiệu
quả
khi
có
sự
hỗ
trợ
của
các
phương
tiện
nghe
–
nhìn.
-
Vấn
đáp
tìm
tòi
(đàm
thoại
Ơxrixtic):
giáo
viên
dùng
một
hệ
thống
câu
hỏi
được
sắp
xếp
hợp
lý
để
hướng
học
sinh
từng
bước
phát
hiện
ra
bản
chất
của
sự
vật,
tính
quy
luật
của
hiện
tượng
đang
tìm
hiểu,
kích
thích
sự
ham
muốn
hiểu
biết.
Giáo
viên
tổ
chức
sự
trao
đổi
ý
kiến
–
kể
cả
tranh
luận
–
giữa
thầy
với
cả
lớp,
có
khi
giữa
trò
với
trò,
nhằm
giải
quyết
một
vấn
đề
xác
định.
Trong
vấn
đáp
tìm
tòi,
giáo
viên
giống
như
người
tổ
chức
sự
tìm
tòi,
còn
học
sinh
giống
như
người
tự
lực
phát
hiện
kiến
thức
mới.
Vì
vậy,
khi
kết
thúc
cuộc
đàm
thoại,
học
sinh
có
được
niềm
vui
của
sự
khám
phá
trưởng
thành
thêm
một
bước
về
trình
độ
tư
duy.
b.
Phương
pháp
đặt
và
giải
quyết
vấn
đề.
Trong
một
xã
hội
đang
phát
triển
nhanh
theo
cơ
chế
thị
trường,
cạnh
tranh
gay
gắt
thì
phát
hiện
sớm
và
giải
quyết
hợp
lý
những
vấn
đề
nảy
sinh
trong
thực
tiễn
là
một
năng
lực
đảm
bảo
sự
thành
công
trong
cuộc
sống,
đặc
biệt
trong
kinh
doanh.
Vì
vậy,
tập
dượt
cho
học
sinh
biết
phát
hiện,
đặt
ra
và
giải
quyết
những
vấn
đề
gặp
phải
trong
học
tập,
trong
cuộc
sống
của
cá
nhân,
gia
đình
và
cộng
đồng
không
chỉ
có
ý
nghĩa
ở
tầm
phương
pháp
dạy
học
mà
phải
được
đặt
như
một
mục
tiêu
giáo
dục
và
đào
tạo.
Cấu
trúc
một
bài
học
(hoặc
một
phần
bài
học)
theo
phương
pháp
đặt
và
giải
quyết
vấn
đề
thường
như
sau
-
Đặt
vấn
đề,
xây
dựng
bài
toán
nhận
thức
o
Tạo
tình
huống
có
vấn
đề;
o
Phát
hiện,
nhận
dạng
vấn
đề
nảy
sinh;
o
Phát
hiện
vấn
đề
cần
giải
quyết
-
Giải
quyết
vấn
đề
đặt
ra
o
Đề
xuất
cách
giải
quyết;
o
Lập
kế
hoạch
giải
quyết;
o
Thực
hiện
kế
hoạch
giải
quyết.
-
Kết
luận:
o
Thảo
luận
kết
quả
và
đánh
giá;
o
Khẳng
định
hay
bác
bỏ
giả
thuyết
nêu
ra;
o
Phát
biểu
kết
luận;
o
Đề
xuất
vấn
đề
mới.
Có
thể
phân
biệt
bốn
mức
trình
độ
đặt
và
giải
quyết
vấn
đề:
Mức
1: Giáo
viên
đặt
vấn
đề,
nêu
cách
giải
quyết
vấn
đề.
Học
sinh
thực
hiện
cách
giải
quyết
vấn
đề
theo
hướng
dẫn
của
giáo
viên.
Giáo
viên
đánh
giá
kết
quả
làm
việc
của
học
sinh.
Mức
2: Giáo
viên
nêu
vấn
đề,
gợi
ý
để
học
sinh
tìm
ra
cách
giải
quyết
vấn
đề.
Học
sinh
thực
hiện
cách
giải
quyết
vấn
đề
với
sự
giúp
đỡ
của
giáo
viên
khi
cần.
Giáo
viên
và
học
sinh
cùng
đánh
giá.
Mức
3: Giáo
viên
cung
cấp
thông
tin
tạo
tình
huống
có
vấn
đề.
Học
sinh
phát
hiện
và
xác
định
vấn
đề
nảy
sinh,
tự
đề
xuất
các
giả
thuyết
và
lựa
chọn
giải
pháp.
Học
sinh
thực
hiện
cách
giải
quyết
vấn
đề.
Giáo
viên
và
học
sinh
cùng
đánh
giá.
Mức
4 :
Học
sinh
tự
lực
phát
hiện
vấn
đề
nảy
sinh
trong
hoàn
cảnh
của
mình
hoặc
cộng
đồng,
lựa
chọn
vấn
đề
giải
quyết.
Học
sinh
giải
quyết
vấn
đề,
tự
đánh
giá
chất
lượng,
hiệu
quả,
có
ý
kiến
bổ
sung
của
giáo
viên
khi
kết
thúc.
Các
mức |
Đặt
vấn
đề |
Nêu
giả
thuyết |
Lập
kế
hoạch |
Giải
quyết
vấn
đề |
Kết
luận,
đánh
giá |
1 |
GV |
GV |
GV |
HS |
GV |
2 |
GV |
GV |
HS |
HS |
GV
+
HS |
3 |
GV
+
HS |
HS |
HS |
HS |
GV
+
HS |
4 |
HS |
HS |
HS |
HS |
GV
+
HS |
Trong
dạy
học
theo
phương
pháp
đặt
và
giải
quyết
vấn
đề,
học
sinh
vừa
nắm
được
tri
thức
mới,
vừa
nắm
được
phương
pháp
lĩnh
hội
tri
thức
đó,
phát
triển
tư
duy
tích
cực,
sáng
tạo,
được
chuẩn
bị
một
năng
lực
thích
ứng
với
đời
sống
xã
hội, phát
hiện
kịp
thời
và
giải
quyết
hợp
lý
các
vấn
đề
nảy
sinh.
c.
Phương
pháp
hoạt
động
nhóm
Lớp
học
được
chia
thành
từng
nhóm
nhỏ
từ
4
đến
6
người.
Tuỳ
mục
đích,
yêu
cầu
của
vấn
đề
học
tập,
các
nhóm
được
phân
chia
ngẫu
nhiên
hay
có
chủ
định,
được
duy
trì
ổn
định
hay
thay
đổi
trong
từng
phần
của
tiết
học,
được
giao
cùng
một
nhiệm
vụ
hay
những
nhiệm
vụ
khác
nhau.
Nhóm
tự
bầu
nhóm
trưởng
nếu
thấy
cần.
Trong
nhóm
có
thể
phân
công
mỗi
người
một
phần
việc.
Trong
nhóm
nhỏ,
mỗi
thành
viên
đều
phải
làm
việc
tích
cực,
không
thể
ỷ
lại
vào
một
vài
người
hiểu
bết
và
năng
động
hơn.
Các
thành
viên
trong
nhóm
giúp
đỡ
nhau
tìm
hiêu
vấn
đề
nêu
ra
trong
không
khí
thi
đua
với
các
nhóm
khác.
Kết
quả
làm
việc
của
mỗi
nhóm
sẽ
đóng
góp
vào
kết
quả
học
tập
chung
của
cả
lớp.
Để
trình
bày
kết
quả
làm
việc
của
nhóm
trước
toàn
lớp,
nhóm
có
thể
cử
ra
một
đại
diện
hoặc
phân
công
mỗi
thành
viên
trình
bày
một
phần
nếu
nhiệm
vụ
giao
cho
nhóm
là
khá
phức
tạp.
Phương
pháp
hoạt
động
nhóm
có
thể
tiến
hành
:
· Làm
việc
chung
cả
lớp
:
-
Nêu
vấn
đề,
xác
định
nhiệm
vụ
nhận
thức
-
Tổ
chức
các
nhóm,
giao
nhiệm
vụ
-
Hướng
dẫn
cách
làm
việc
trong
nhóm
· Làm
việc
theo
nhóm
-
Phân
công
trong
nhóm
-
Cá
nhân
làm
việc
độc
lập
rồi
trao
đổi
hoặc
tổ
chức
thảo
luận
trong
nhóm
-
Cử
đại
diện
hoặc
phân
công
trình
bày
kết
quả
làm
việc
theo
nhóm
· Tổng
kết
trước
lớp
-
Các
nhóm
lần
lượt
báo
cáo
kết
quả
-
Thảo
luận
chung
-
Giáo
viên
tổng
kết,
đặt
vấn
đề
cho
bài
tiếp
theo,
hoặc
vấn
đề
tiếp
theo
trong
bài
Phương
pháp
hoạt
động
nhóm
giúp
các
thành
viên
trong
nhóm
chia
sẻ
các
băn
khoăn,
kinh
nghiệm
của
bản
thân,
cùng
nhau
xây
dựng
nhận
thức
mới.
Bằng
cách
nói
ra
những
điều
đang
nghĩ,
mỗi
người
có
thể
nhận
rõ
trình
độ
hiểu
biết
của
mình
về
chủ
đề
nêu
ra,
thấy
mình
cần
học
hỏi
thêm
những
gì.
Bài
học
trở
thành
quá
trình
học
hỏi
lẫn
nhau
chứ
không
phải
là
sự
tiếp
nhận
thụ
động
từ
giáo
viên.
Thành
công
của
bài
học
phụ
thuộc
vào
sự
nhiệt
tình
tham
gia
của
mọi
thành
viên,
vì
vậy
phương
pháp
này
còn
gọi
là
phương
pháp
cùng
tham
gia.
Tuy
nhiên,
phương
pháp
này
bị
hạn
chế
bởi
không
gian
chật
hẹp
của
lớp
học,
bởi
thời
gian
hạn
định
của
tiết
học,
cho
nên
giáo
viên
phải
biết
tổ
chức
hợp
lý
và
học
sinh
đã
khá
quen
với
phương
pháp
này
thì
mới
có
kết
quả.
Cần
nhớ
rằng,
trong
hoạt
động
nhóm,
tư
duy
tích
cực
của
học
sinh
phải
được
phát
huy
và
ý
nghĩa
quan
trọng
của
phương
pháp
này
là
rèn
luyện
năng
lực
hợp
tác
giữa
các
thành
viên
trong
tổ
chức
lao
động.Cần
tránh
khuynh
hướng
hình
thưc
và
đề
phòng
lạm
dụng,
cho
rằng
tổ
chức
hoạt
động
nhóm
là
dấu
hiệu
tiêu
biểu
nhất
của
đổi
mới
PPDH
và
hoạt
động
nhóm
càng
nhiều
thì
chứng
tỏ
phương
pháp
dạy
học
càng
đổi
mới.
d.
Phương
pháp
đóng
vai
Đóng
vai
là
phương
pháp
tổ
chức
cho
học
sinh
thực
hành
một
số
cách
ứng
xử
nào
đó
trong
một
tình
huống
giả
định.
Phương
pháp
đóng
vai
có
những
ưu
điểm
sau
:
-
Học
sinh
được
rèn
luyện
thực
hành
những
kỹ
năng
ứng
xử
và
bày
tỏ
thái
độ
trong
môi
trường
an
toàn
trước
khi
thực
hành
trong
thực
tiễn.
-
Gây
hứng
thú
và
chú
ý
cho
học
sinh
-
Tạo
điều
kiện
làm
nảy
sinh
óc
sáng
tạo
của
học
sinh
-
Khích
lệ
sự
thay
đổi
thái
độ,
hành
vi
của
học
sinh
theo
chuẩn
mực
hành
vi
đạo
đức
và
chính
trị
–
xã
hội
-
Có
thể
thấy
ngay
tác
động
và
hiệu
quả
của
lời
nói
hoặc
việc
làm
của
các
vai
diễn.
v
Cách
tiến
hành
có
thể
như
sau
:
o
Giáo
viên
chia
nhóm,
giao
tình
huống
đóng
vai
cho
từng
nhóm
và
quy
định
rõ
thời
gian
chuẩn
mực,
thời
gian
đóng
vai
o
Các
nhóm
thảo
luận
chuẩn
bị
đóng
vai
o
Các
nhóm
lên
đóng
vai
o
Giáo
viên
phỏng
vấn
học
sinh
đóng
vai
- Vì
sao
em
lại
ứng
xử
như
vậy
?
- Cảm
xúc,
thái
độ
của
em
khi
thực
hiện
cách
ứng
xử
?
Khi
nhận
được
cách
ứng
xử
(
đúng
hoặc
sai
)
o Lớp
thảo
luận,
nhận
xét
:
Cách
ứng
xử
của
các
vai
diễn
phù
hợp
hay
chưa
phù
hợp
? Chưa
phù
hợp
ở
điểm
nào
?
Vì
sao
?
o
Giáo
viên
kết
luận
về
cách
ứng
xử
cần
thiết
trong
tình
huống.
v
Những
điều
cần
lưu
ý
khi
sử
dụng
:
o
Tình
huống
nên
để
mở,
không
cho
trước
“
kịch
bản”,
lời
thoại
o
Phải
dành
thời
gian
phù
hợp
cho
các
nhóm
chuẩn
bị
đóng
vai
o
Người
đóng
vai
phải
hiểu
rõ
vai
của
mình
trong
bài
tập
đóng
vai
để
không
lạc
đề
o
Nên
khích
lệ
cả
những
học
sinh
nhút
nhát
tham
gia
o
Nên
hoá
trang
và
đạo
cụ
đơn
giản
để
tăng
tính
hấp
dẫn
của
trò
chơi
đóng
vai
e.
Phương
pháp
động
não
Động
não
là
phương
pháp
giúp
học
sinh
trong
một
thời
gian
ngắn
nảy
sinh
được
nhiều
ý
tưởng,
nhiều
giả
định
về
một
vấn
đề
nào
đó.
Thực
hiện
phương
pháp
này,
giáo
viên
cần
đưa
ra
một
hệ
thống
các
thông
tin
làm
tiền
đề
cho
buổi
thảo
luận.
v
Cách
tiến
hành
o
Giáo
viên
nêu
câu
hỏi,
vấn
đề
cần
được
tìm
hiểu
trước
cả
lớp
hoặc
trước
nhóm
o
Khích
lệ
học
sinh
phát
biểu
và
đóng
góp
ý
kiến
càng
nhiều
càng
tốt
o
Liệt
kê
tất
cả
các
ý
kiến
phát
biểu
đưa
lên
bảng
hoặc
giấy
khổ
to,
không
loại
trừ
một
ý
kiến
nào,
trừ
trường
hợp
trùng
lặp
o
Phân
loại
ý
kiến
o
Làm
sáng
tỏ
những
ý
kiến
chưa
rõ
ràng
và
thảo
luận
sâu
từng
ý.
g. Kĩ
thuật
“khăn
trải
bàn”?
Là
hình
thức
tổ
chức
hoạt
động
mang
tính
hợp
tác
kết
hợp
giữa
hoạt
động
cá
nhân
và
hoạt
động
nhóm
nhằm:
-
Kích
thích,
thúc
đẩy
sự
tham
gia
tích
cực
-
Tăng
cường
tính
độc
lập,
trách
nhiệm
của
cá
nhân
HS
-
Phát
triển
mô
hình
có
sự
tương
tác
giữa
HS
với
HS
Cách
tiến
hành
kĩ
thuật
“Khăn
trải
bàn”
-
Hoạt
động
theo
nhóm
(4
người
/
nhóm)
(có
thể
nhiều
người
hơn)
-
Mỗi
người
ngồi
vào
vị
trí
như
hình
vẽ
minh
họa
-
Tập
trung
vào
câu
hỏi
(hoặc
chủ
đề,...)
-
Viết
vào
ô
mang
số
của
bạn
câu
trả
lời
hoặc
ý
kiến
của
bạn
(về
chủ
đề...).
Mỗi
cá
nhân
làm
việc
độc
lập
trong
khoảng
vài
phút
-
Kết
thúc
thời
gian
làm
việc
cá
nhân,
các
thành
viên
chia
sẻ,
thảo
luận
và
thống
nhất
các
câu
trả
lời
-
Viết
những
ý
kiến
chung
của
cả
nhóm
vào
ô
giữa
tấm
khăn
trải
bàn
(giấy
A0)
Một
vài
ý
kiến
cá
nhân
với
kĩ
thuật
“Khăn
trải
bàn”
-
Kĩ
thuật
này
giúp
cho
hoạt
động
nhóm
có
hiệu
quả
hơn,
mỗi
học
sinh
đều
phải
đưa
ra
ý
kiến
của
mình
về
chủ
đề
đang
thảo
luận,
không
ỷ
lại
vào
các
bạn
học
khá,
giỏi.
-
Kĩ
thuật
này
áp
dụng
cho
hoạt
động
nhóm
với
một
chủ
đề
nhỏ
trong
tiết
học,
toàn
thể
học
sinh
cùng
nghiên
cứu
một
chủ
đề.
-
Sau
khi
các
nhóm
hoàn
tất
công
việc
giáo
viên
có
thể
gắn
các
mẫu
giấy
“khăn
trải
bàn”
lên
bảng
để
cả
lớp
cùng
nhận
xét.
Có
thể
dùng
giấy
nhỏ
hơn,
dùng
máy
chiếu
phóng
lớn
-
Có
thể
thay
số
bằng
tên
của
học
sinh
để
sau
đó
giáo
viên
có
thể
đánh
giá
được
khả
năng
nhận
thức
của
từng
học
sinh
về
chủ
đề
được
nêu.